TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG DO HẾT THỜI HẠN THỬ VIỆC VẪN TIẾP TỤC LÀM VIỆC NHƯNG KHÔNG KÝ HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG

1. Tình huống pháp lý

Ông Nguyễn Văn H ký hợp đồng thử việc với Công ty TNHH X từ ngày 30/09/2020 – ngày 30/11/2020. Sau thúc thời gian thử việc Công ty X không thông báo kết quả thử việc và không ký Hợp đồng lao động với ông H, Ông H tiếp tục làm việc tại Công ty cho đến hết ngày 04/12/2020 thì được thông báo nghỉ việc vì Công ty sẽ tinh gọn lại. Trường hợp này nếu nêu Ông H khởi kiện yêu cầu Công ty bồi thường do chấm dứt trái pháp luật có được không. Thời gian được bồi thường tính đến ngày khởi kiện là bao nhiêu:

2. các nhận định về vụ việc

Qua nghiên cứu hồ sơ vụ việc và căn cứ vào các lời trình bày của Ông Nguyễn Văn H có thể thấy:

Một là, Xác định quan hệ lao động giữa ông Nguyễn Bá Hải và Công ty TNHH X

Ngày 30/9/2020 Công ty X đã ký kết hợp đồng thử việc với ông Nguyễn Văn H với thời hạn thử việc là 2 tháng kể từ ngày 30/9/2020 đến ngày 30/11/2020.

1.Căn cứ theo quy định tại Điều 7 Nghị định 05/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật lao động thì “Trong thời hạn 03 ngày trước khi kết thúc thời gian thử việc đối với người lao động làm công việc có thời gian thử việc quy định tại Khoản 1 và 2 Điều 27 của Bộ luật Lao động, người sử dụng lao động phải thông báo cho người lao động kết quả công việc người lao động đã làm thử; trường hợp công việc làm thử đạt yêu cầu thì khi kết thúc thời gian thử việc, người sử dụng lao động phải giao kết ngay hợp đồng lao động với người lao động.” Tuy nhiên, trong khoảng thời gian 3 ngày (28,29,30/11) trước khi kết thức thời gian thử việc Công ty CIC Phú Quốc không thông báo kết quả thử việc cho Ông Hải.

Như vậy Công ty X đã vi phạm quy định tại Điều 7 Nghị định 05/2015/NĐ-CP nêu trên. Và Căn cứ theo quy định tại Điều 9 của Nghị định 28/2020 NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính bảo hiểm thì Công ty X sẽ bị xử phạt hành chính 500.000 – 1.000.000 đối với hành vi “không thông báo kết quả thử việc cho Người lao động”, xử phạt từ 2.000.000-5.000.000 đồng đối với hành vi “Kết thúc thời gian thử việc NLĐ vẫn tiếp tục làm việc mà Người lao động không giao kết HĐLĐ với người lao động” và buộc phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả: buộc phải giao kết Hợp đồng lao động với người lao động.

2.Căn cứ theo tinh thần án lệ sô 20/2018/AL về xác lập quan hệ hợp đồng lao động sau khi hết thời gian thử việc thì “ Khi hết thời hạn thử việc, NLĐ vẫn tiếp tục làm việc mà người sử dụng lao động và Người lao động không có thỏa thuận nào khác” thì được coi là 2 bên đã xác lập quan hệ Hợp đồng lao động.

  • Dó đó, Giữa Công ty X và ông Nguyễn Văn H đã phát sinh quan hệ hợp đồng lao động

Thứ Hai, Về tính Hợp pháp của việc đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động của Công ty X

Căn cứ theo Điều 38 Bộ luật lao động 2012 quy định về quyền đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động của Người sử dụng lao động như sau:

“Điều 38. Quyền đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động của người sử dụng lao động

  1. Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây:
  2. a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động;
  3. b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.

Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động;

  1. c) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;
  2. d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 33 của Bộ luật này.
  3. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước:
  4. a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
  5. b) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn;
  6. c) Ít nhất 03 ngày làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này và đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.”

Như vậy, Công ty X đã đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động trái pháp luật với ông H vì không có lý do chính đáng, đồng thời vi phạm thời hạn báo trước cho ông H.

Thứ ba, xác định thời gian ông Hải được nhận bồi thường từ Công ty X do Công ty chấm dứt Hợp đồng trái Pháp luật.

Căn cứ theo Điều 42 Bộ luật lao động 2012 quy định về nghĩa vụ của Người sử dụng lao động  khi đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động

“Điều 42. Nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật

  1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
  2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này.
  3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.
  4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.
  5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho Người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của Người lao động trong những ngày không báo trước.”

Như vậy, Căn cứ quy định nêu trên Công ty X phải thanh toán cho Ông Nguyễn Văn H các khoản tiền sau:

  1. Tiền lương (bao gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác) và tiền bồi thường do Công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật tạm tính đến thời điểm nộp đơn Khởi kiện là 16 tháng (16 tháng).
  2. Tiền vi phạm thời hạn báo trước 30 ngày theo khoản 5 Điều 42 Bộ luật lao động 2012 (1 tháng).

 

Post Author: Luật DHP