NHỮNG VI PHẠM VỀ PHÒNG CHỐNG DỊCH COVID – 19 CÓ THỂ BỊ XỬ LÝ HÌNH SỰ

Bên cạnh việc xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động phòng chống dịch Covid – 19 thì những hành vi sau đây còn có thể bị xử lý hình sự theo quy định của pháp luật, cụ thể:

I. NHỮNG HÀNH VI LÀM LÂY LAN DỊCH BỆNH TRUYỀN NHIỄM CHO NGƯỜI

  1. Người đã được thông báo mắc bệnh; người nghi ngờ mắc bệnh hoặc trở về từ vùng có dịch bệnh COVID-19 đã được thông báo cách ly, thực hiện một trong các hành vi: Trốn khỏi nơi cách ly; Không tuân thủ quy định về cách ly; Từ chối, trốn tránh việc áp dụng biện pháp cách ly, cưỡng chế cách ly; Không khai báo y tế, khai báo không đầy đủ hoặc khai báo gian dối. Gây lây truyền dịch bệnh COVID-19 cho người khác thì bị coi là trường hợp thực hiện “hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 240 Bộ luật Hình sự (BLHS) và xử lý về tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm cho người.
  • Hậu quả pháp lý: Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội có thể chịu mức phạt tù tối đa đến 12 năm và còn có thể bị phạt tiền tối đa đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 – 5 năm.
  1. Người chưa bị xác định mắc bệnh COVID-19, nhưng sống trong khu vực đã có quyết định cách ly, quyết định phong tỏa thực hiện một trong các hành vi: Trốn khỏi khu vực bị cách ly, khu vực bị phong tỏa; Không tuân thủ quy định cách ly; Từ chối, trốn tránh việc áp dụng biện pháp cách ly, cưỡng chế cách ly; Không khai báo y tế, khai báo không đầy đủ hoặc khai báo gian dối gây thiệt hại từ 100 triệu đồng trở lên do phát sinh chi phí phòng, chống dịch bệnh thì bị xử lý về tội vi phạm quy định về an toàn ở nơi đông người theo quy định tại Điều 295 BLHS.
  • Hậu quả pháp lý: Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội có thể chịu mức phạt tù tối đa đến 12 năm và còn có thể bị phạt tiền tối đa đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 – 5 năm.

II. XỬ LÝ CƠ SỞ KINH DOANH HOẠT ĐỘNG TRONG THỜI GIAN CÓ LỆNH TẠM ĐÌNH CHỈ

Chủ cơ sở kinh doanh, người quản lý cơ sở kinh doanh dịch vụ (như quán bar, vũ trường, karaoke, dịch vụ mát-xa, cơ sở thẩm mỹ…) thực hiện hoạt động kinh doanh khi đã có quyết định tạm đình chỉ hoạt động kinh doanh để phòng, chống dịch bệnh COVID-19 của cơ quan, người có thẩm quyền, gây thiệt hại từ 100 triệu đồng trở lên do phát sinh chi phí phòng, chống dịch bệnh thì bị xử lý về tội vi phạm quy định về an toàn ở nơi đông người theo quy định tại Điều 295 BLHS.

Hậu quả pháp lý: Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội có thể chịu mức phạt tù tối đa đến 12 năm và còn có thể bị phạt tiền tối đa đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 – 5 năm.

III. HÀNH VI ĐƯA THÔNG TIN SAI SỰ THẬT VỀ DỊCH BỆNH COVID-19

  1. Người có hành vi đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, thông tin xuyên tạc về tình hình dịch bệnh COVID-19, gây dư luận xấu thì bị xử lý về tội đưa hoặc sử dụng trái pháp luật thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông theo quy định tại Điều 288 BLHS.
  • Hậu quả pháp lý: Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội có thể chịu mức phạt tù tối đa đến 7 năm và còn có thể bị phạt tiền tối đa đến 200 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 – 5 năm.
  1. Người có hành vi đưa trái phép thông tin cá nhân, bí mật đời tư xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của nhân viên y tế, người tham gia phòng, chống dịch bệnh COVID-19, người mắc bệnh, người nghi ngờ mắc bệnh COVID-19 thì bị xử lý về tội làm nhục người khác theo quy định tại Điều 155 BLHS.
  • Hậu quả pháp lý: Tùy thuộc vào mức độ, tính chất của hành vi phạm tội, người phạm tội có thể chịu mức phạt tù tối đa đến 05 năm và còn có thể bị phạt tiền tối đa đến 30 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 – 5 năm.
  1. Người có hành vi lợi dụng dịch bệnh COVID-19 đưa ra thông tin không đúng sự thật về công dụng của thuốc, vật tư y tế về phòng, chống dịch bệnh nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác thì bị xử lý về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174 BLHS.
  • Hậu quả pháp lý: Tùy thuộc vào mức độ, tính chất và hậu quả của hành vi phạm tội, người phạm tội có thể chịu mức phạt tù tối đa đến 20 năm hoặc tù chung thân và có thể bị phạt tiền tối đa đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

IV. MỘT SỐ HÀNH VI KHÁC LIÊN QUAN TỚI DỊCH BỆNH COVID-19

  1. Người có hành vi lợi dụng sự khan hiếm hoặc tạo sự khan hiếm giả tạo trong tình hình dịch bệnh COVID-19 để mua vét hàng hóa đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công bố là mặt hàng bình ổn giá hoặc hàng hóa được Nhà nước định giá nhằm bán lại để thu lợi bất chính thì bị xử lý về tội đầu cơ theo quy định tại Điều 196 BLHS.
  • Hậu quả pháp lý:
  • Đối với cá nhân: Tùy thuộc vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, người phạm tội có thể chịu mức phạt tù tối đa đến 15 năm và có thể bị phạt tiền tối đa đến 5 tỷ đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
  • Đối với pháp nhân phạm tội: Tùy thuộc vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, pháp nhân có thể chịu phạt tối đa đến 9 tỷ đồng, cấm kinh doanh hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.
  1. Người có trách nhiệm trong phòng, chống dịch bệnh COVID-19 nhưng không triển khai hoặc triển khai không kịp thời, không đầy đủ các biện pháp phòng, chống dịch bệnh theo quy định gây hậu quả nghiêm trọng thì bị xử lý về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo quy định tại Điều 360 BLHS.
  • Hậu quả pháp lý: Tùy thuộc vào hậu quả của hành vi phạm tội, người phạm tội có thể chịu mức phạt tù tối đa đến 12 năm, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

LÊ NGA

Post Author: Luật DHP